Viêm gan B có thể chữa khỏi không?

I. Giới thiệu
Viêm gan B mạn tính vẫn còn là một vấn đề y tế quan trọng toàn cầu. Sự tiến triển đến xơ gan, bệnh gan mất bù và ung thư biểu mô tế bào gan là những hậu quả bất lợi chính của bệnh chưa được điều trị. Vì vậy, mục tiêu trị liệu là để dự phòng các biến chứng này nhằm ngăn ngừa kết cuộc tử vong sớm do viêm gan B mạn tính. Hiện nay có 7 thuốc đã được chấp thuận để điều trị viêm gan B mạn tính ở Mỹ là: interferon alfa-2b, peginterferon alfa-2a, lamivudine, adefovir, entecavir , telbivudine, tenofovir .Các chất tương tự nucleos(t)ide kiểm soát    sự sao chép của virus rất tốt, với các nồng độ có thể thay đổi được và độ bền lâu dài.         Tuy nhiên, sự sao chép virus điển hình trở về lại các nồng độ có thể phát hiện được sau khi ngừng trị liệu bằng nuleos(t)ide, ngay cả ở những bệnh nhân ban đầu có kháng nguyên e  viêm gan B (HBeAg) dương tính, nhưng bị mất HBeAg và phát triển kháng thể kháng HBeAg - sự chuyển đổi huyết thanh HBeAg - hoặc những người mất kháng nguyên bề mặt viêm gan B (HBsAg) trong thời gian điều trị. Vì vậy, mặc dù những thuốc này có thể kiểm soát nhiễm virus viêm gan B mạn tính nhưng hiếm khi chúng - nếu có, chữa khỏi bệnh. Sự giải thích có thể là có một dạng virus được gọi là “DNA vòng đóng đồng hóa trị (cccDNA)” đóng vai trò then chốt về sự tồn tại kéo dài của virus và sự tái hoạt động của virus sau khi ngừng điều trị. Tài liệu này nêu bật vai trò then chốt của cccDNA trong tiến trình nhiễm virus viêm gan B (HBV) tự nhiên và được điều trị.

THÔNG TIN HỘI NGHỊ GAN MẬT HOA KỲ BOSTON 29/10 - 2/11/2010


Hội nghị gan mật Hoa kỳ lần này là sự kiện lớn trong lĩnh vực gan mật , 9200 bác sĩ , chuyên gia gan mật toàn thế giới đã về tham dự hội nghị này. Nhiều phương pháp chẩn đoán , điều trị mới, các kỹ thuật y khoa hiện đại đã được báo cáo. Viêm gan virus là sự kiện rất lớn và hấp dẫn trong bệnh lý gan suốt 5 thập niên qua . Từ khi có sự ra đời của sinh học phân tử người ta đã hiểu biết nhiều hơn về lãnh vực virus , tuy nhiên vẫn còn nhiều điều nằm trong bức màn bí mật. khoảng 400—500 triệu bệnh gan mạn tính trên thế giới là do virus , đó là nguyên nhân chính đưa đến ung thư gan . Viêm gan virus là vấn đề sức khỏe sống còn và khẩn cấp của toàn cầu….

THÔNG TIN HỘI NGHỊ GAN MẬT CHÂU ÂU - BERLIN - ĐỨC - 30/03 - 03/04/2011


Viêm gan virus B,C vẫn là vấn đề nóng hỏi hiện nay và thập niên qua, đó là yếu tố đưa đến xơ gan , ung thư gan và tử vong…..Những phương pháp hiện có chưa mấy khả quan , điều trị gặp nhiều thất bại và tái phát nhất là viêm gan B, những nhà khoa học vẫn không ngừng nghiên cứu và những phương pháp điều trị mới tiếp tục ra đời….DAA, thuốc kháng siêu vi tác động trực tiếp…là hướng mới cho điều trị viêm gan virus…

DIỄN TIẾN TỰ NHIÊN- CHẨN ĐOÁN- ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN VIÊM GAN SIÊU VI B MẠN TÍNH

Hơn 400 triệu ngưiời trên thế giới nhiễm siêu vi B, đây là một trong những bệnh gan phổ biến , và khả năng đưa đến xơ gan , ung thư gan rất cao. Vì vậy vấn đề tìm hiểu diễn tiến bệnh , chẩn đoán và điều trị là điều đáng quan tâm. Trong những năm qua nhờ tiến bộ của khoa học , nhất là sinh học phân tử đã giúp cho việc chẩn đoán và điều trị viêm gan B mãn tính rất hiệu quả
I.DIỄN TIẾN TỰ NHIÊN CỦA NHIỄM HBV MẠN TÍNH
Diễn tíên tự nhiên của những người nhiễm virus viêm gan B mạn tính (HBV) đựơc chia làm 3 giai đoạn: giai đoạn dung nạp miễn dịch, giai đoạn có phản ứng miễn dịch, giai đoạn người mang mang mầm bệnh không hoạt động . Đối với những cá thể đã tiếp xúc với HBV ở lúc bé, giai đoạn dung nạp miễn dịch có thể kéo dài nhiều thập niên, trong khi ở những người bị nhiễm khi lớn, giai đoạn này thường thì không có.

CÁC KHỐI U GAN


Theo Richard Simcock, MBBS, MRCD (Medical progress June 2002)

Bệnh gan là một vấn đề thường gặp trong ung thư học. Phần lớn các khối u gan là do di căn: trong 28.000 trường hợp ung thu đại tràng mới mỗi năm ở Anh, hơn một nửa có di căn tới gan. Tuy nhiên ung thư nguyên phát ở gan và đường ruột cũng rất quan trọng và có ý nghĩa về mặt dịch tể.
Ung thư ở gan thường có tiên lượng rất xấu (thời gian sống còn trung bình của bệnh nhân ung thư vú di căn gan chỉ 3 đến 6 tháng). Tuy nhiên, mặc dù thuyết hư vô về điều trị trong lĩnh vực này trong quá khứ, dần dần cũng có những tiến bộ trong ngăn ngừa và điều trị những khối u, những khối u này sẽ được điều trị trong các trung tâm ung thư và các cách điều trị sẽ được xem xét. Sự tiến bộ chút ít trong việc chữa lành, nhưng sự giảm đau thì cải thiện nhiều, việc ngăn ngừa và truy tìm đã cho hy vọng thật sự trong việc giảm tỉ lệ bệnh ung thư trên thế giới.

XÉT NGHIỆM CHẨN ĐOÁN U GAN

BS. Hồ Tấn Đạt, BS. Phạm Thị Thu Thủy,
DS Nguyễn Thanh Tòng. TT Y Khoa MEDIC.

Bệnh lý gan mật có rất nhiều loại, trong đó khối u ở gan là một tình trạng bệnh rất hay gặp. U ở gan có rất nhiều loại từ lành tính đến u ác tính. U nguyên phát ở gan thường xuất phát từ nhiều loại tế bào (Bảng 1). Gan cũng là nơi thường hay gặp u ác tính di căn từ nơi khác đến, các u di căn thường từ: Đại tràng, tụy, dạ dày, vú…Hai loại u gan nguyên phát quan trong nhất là HCC (Hepatocellular Carcinoma) và Cholangiocarcinoma.

Kết quả xét nghiệm chức năng gan và chẩn đoán hình ảnh có giá trị như thế nào trong bệnh lý gan?


Xét nghiệm chức năng gan ( LFTs)  dùng để phản ánh tình trạng hoạt động của gan.. Tuy nhiên ngoài  ý nghĩa, lợi ích cũng có  hạn chế của xét nghiệm chức năng gan (LFTs).  LFTs không thể xác định được những bệnh cụ thể của gan. Để xác định cần có xét nghiệm chuyên sâu và đặc biệt hơn. Ngoài ra, để chẩn đoán bệnh gan cần có kết quả chẩn đoán hình ảnh, như siêu âm gan, chụp cắt lớp và cộng hưởng từ thường dùng để quan sát hình ảnh gan.
I.Tìm hiểu về xét nghiệm chức năng gan (LFTs)

GAN NHIỄM MỠ

Phần 1: Gan nhiểm mở là gì?
I. ĐẠI CƯƠNG
• Gan nhiễm mỡ có thể là một hậu quả của rất nhiều bệnh, kể cả do uống nhiều rượu, các bệnh về chuyển hoá, do sử dụng thuốc và các rối loạn về dinh dưỡng.
• Có rất nhiều cơ chế gây ra tình trạng gan nhiễm mỡ. Một trong những cơ chế thường gặp là do sự oxy hoá acid béo ở gan bị giảm, thường do sự rối loạn chức năng của ty lạp thể.
• Hầu hết các trường hợp gan nhiễm mỡ không có triệu chứng. Chúng thường được phát hiện qua triệu chứng gan to thấy được khi kiểm tra sức khoẻ định kỳ, hoặc qua những bất thường nhẹ ở các chỉ số aminotransferase máu hoặc alkaline phophatase được thể hiện trong các xét nghiệm thường qui.